Ngài Liễu Quán

I. Nguyên quán:

Ngài Liễu Quán tên Lê Thiệt DiOEu, quê làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Ngài mồ côi mẹ lúc sáu tuổi.

Thân sinh Ngài cho Ngài xuất gia làm đệ tử của Ngài Tế Viên Hòa Thượng, người Trung Hoa.

II. Sự nghiệp tu hành:


Phật pháp ứng dụng Ngài Liễu Quán

Được 7 năm thì Hòa Thượng Tế Viên viên tịch. Ngài ra Thuận Hóa tham học với Ngài Giác Phong ở chùa Bảo Quốc. Một năm sau (1691) Ngài trở về quê để phụng dưỡng cha già. Sau khi phụ thân mất (1695) Ngài trở lại Thuận hóa thọ Sa di giới với Ngài Thạch Liêm. Năm 1679 Ngài thọ Cụ túc giới với Ngài Từ Lâm. Năm 1699 Ngài đi tham lễ khắp nơi để bồi dưỡng cho sự tu hành. Năm 1702 Ngài đến Long sơn cầu học tham thuyền với Ngài Tử Dung (Tổ khai sơn chùa Từ Đàm) . Liên tiếp mấy năm 1733 đến 1735 Ngài đã dự 4 lễ lớn về

Đại giới đàn. Năm 1740, Ngài chủ trì đàn Long Hoa truyền giới, sau đó Ngài trở về núi Thiên Thai dựng am thảo ẩn náu tu hành, nay là chùa Thuyền Tôn. Năm 1742 Ngài thọ bệnh. Khi sắp lâm chung, Ngài gọi môn đồ lại dạy rằng: "Nhân duyên đã hết, ta sắp chết đây." Khi thấy môn đồ khóc, Ngài dạy: "Các người khóc làm gì? Các đức Phật ra đời còn nhập Niết Bàn, ta nay đi đến rõ ràng, về tất có chỗ, các người không nên khóc và đừng nên buồn thảm." Kế đó Ngài viết bài kệ từ biệt:

"Thất thập dư niên thế giới trung 
Không không sắc sắc diệc dung thông 
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông."

(Ngoài bảy mươi năm trong thế giới 
Không không sắc sắc thảy dung thông 
Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ
Nào phải ân cần hỏi tổ tông).

Viết bài kệ xong, Ngài bảo môn đồ: "Sau khi ta đi, các ngươi phải nghĩ cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học, các người  cố  gắng  tiến  tới,  chớ bỏ quên lời ta."

III. Ảnh hưởng đạo đức:

Ngài Liễu Quán là một vị danh đức tu hành, có công khai hóa hơn hết. Nhờ Ngài mà ảnh hưởng phái Lâm-Tế lan rộng từ Trung đến Nam nước Việt và trở thành một nhánh lớn gọi là Liễu Quán. Ngài là một danh Tăng Việt Nam đắc đạo được tuyên xưng là vị tổ đầu tiên. 

Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742), sau khi dùng nước trà xong, Ngài vui vẻ từ biệt môn đồ, tiêu diêu thoát hóa. Vua Minh Vương được tin liền ban Thụy hiệu là Đạo Hạnh Thụy "Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng." Ngài là đời thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tôn, khai sơn chùa Thiên Thai Thuyền Tôn Huế.

Xem thêm: